Dịch vụ e-banking là dịch vụ ngân hàng điện tử ( ngân hàng qua Internet ), dịch vụ này đc phát triển ở việt nam từ cách đây khoảng 2,3 năm, dịch vụ này mang lại rất nhiều tiện lợi cho người sử dụng bạn có thể kiểm tra tài khoản của mình trực tuyến ko những thế bạn còn có thể dùng mobile làm vật tra cứu tài khoản của mình, khi đi mua hàng cũng sẽ rất tiện lợi, bạn có thể tham gia mua bán trực tuyến trên các site chấp nhận hình thức này.
Bạn không phải đến trực tiếp building hay gặp nhân viên nào của nhà băng. Bạn sẽ không còn lo bị phạt tiền vì quá hạn trả hóa đơn, không phải tốn quá nhiều thời gian để viết chi phiếu, dán tem, gửi thư qua bưu điện và chờ đợi ngân hàng gửi bảng kết toán hàng tháng …Đăng ký tài khoản - trên mạng. Gởi tiền - bằng mail hay trực tiếp và tài khoản. Rút tiền - trên mạng, là những lợi ích của việc sử dụng hình thức dịch vụ ngân hàng e-banking.
Bên cạnh đó, những công việc thông thường tốn nhiều thời gian xưa nay như trả hóa đơn tiền điện, khi đốt, tiền nước, tiền nhà, hoặc tiền thẻ tín dụng… thì nay chỉ cần khoảng từ 15 đến 30 phút đồng hồ. Khách hàng sử dụng dịch vụ e-banking có thể nhập vào máy tính các dữ liệu về số tiền, số tài khoản và ngày thanh toán là tiền sẽ được rút thẳng từ tài khoản của mình trả cho công ty nhận thanh toán
1/ Khái niệm e-banking
Ngân hàng điện tử được định nghĩa như là một phương thức cung cấp các sản phẩm mới và sản phẩm truyền thống đến ngườitiêu dùng thông qua con đường điện tử và các kênh truyền thông tương tác
Ngân hàng điện tử cũng được định nghĩa là các hoạt động trên các nền tảng sau:
•Internet banking (or online banking)
•Telephone banking
•TV-based banking
•Mobile phone banking
•PC banking (or offline banking)
•The ATM (Automated Teller Machine) channel
2/ E-Banking toàn cầu - Qua các thống kê
Internet Banking tại MỹTheo một nghiên cứu của Stegman chi phí trung bình cho việc thực hiện một giao dịch ngân hàng bất kỳ theo kênh truyền thống qua quầy giao dịch tại Mỹ là 1.07 USD.Với việc áp dụng công nghệ, chi phí của một giao dịch tương tự thực hiện qua các kênh ngân hàng tự động động khác nhau lần lượt là: 0.04 USD đối với một giao dịch thực hiện qua trung tâm liên lạc khách hàng (call/contact center); 0.27 USD qua ATM; và 0.01 USD thông qua dịch vụ Internet Banking thực hiện trên một máy tính cá nhân bình thường. Điều này hiển nhiên chứng tỏ rằng các giao dịch dựa trên công nghệ Internet đã trở nên kinh tế và hiệu quả cho ngành ngân hàng Mỹ trong việc giảm chi phí và cải thiện chất lượng dịch vụ cho các khách hàng hiện tại và tiềm năng của ngân hàng ở phạm vi toàn cầu.
Internet Banking tại Anh và các nước châu Âu khác
Phần lớn khách hàng tại Anh và châu Âu sử dụng Internet Banking để xem số dư tài khoản tiền gửi, tài khoản tiết kiệm, kiểm tra giao dịch hàng ngày, đối chiếu số dư. Sử dụng dịch vụ Internet Banking giúp các ngân hàng giảm chi phí hoạt động và thời gian làm việc của nhân viên tại các trung tâm liên lạc khách hàng (call center), các chi nhánh để trả lời khách hàng và thực hiện các giao dịch lặp đi lặp lại. Khách hàng cũng được hưởng lợi nhờ dịch vụ nhanh, chính xác, đảm bảo sự riêng tư, tiết kiệm thời gian đi lại…
Internet Banking tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Tại khu vực này, Internet Banking đã được triển khai tại nhiều nước như Trung Quốc, Hong Kong, Singapore và Thái Lan. Tại Trung Quốc, Ngân hàng Trung Ương đã khuyến khích các dịch vụ Internet Banking từ năm 2000. Tại Hong Kong, ngân hàng HSBC bắt đầu cung cấp dịch vụ Internet Banking vào 1/8/2000. Với dịch vụ Internet Banking của HSBC, khách hàng có thể gửi tiết kiệm, đầu tư chứng khoán, thanh toán hoá đơn dịch vụ và giao dịch ngoại hối. Tại Singapore, dịch vụ Internet Banking đầu tiên đã xuất hiện từ năm 1997. Hiện tại các ngân hàng lớn tại Singapore đều cung cấp dịch vụ này như Oversea Union Bank (OUB), DBS Bank, Citibank, Hong Kong’s Bank of East Asia, Oversea-Chinese Banking Corp. (OCBC). Tại Thái Lan, dịch vụ Internet Banking được cung cấp từ năm 1995. Đặc biệt sau cuộc khủng khoảng tài chính năm 1997, các ngân hàng Thái chịu sức ép phải cắt giảm chi phí đã chuyển hướng sang đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ Internet Banking, coi đây là một giải pháp để giảm chi phí nhân công và tăng độ thoả mãn của khách hàng.
3/ E-Banking toàn cầu – Xu thế hiện nay
·Xu thế chung trong ngành ngân hàng là sự hội tụ về mọi mặt, bao gồm: kênh phân phối, văn hoá bán hàng, các quy trình Back-office và cơ sở hạ tầng quản lý tri thức đều được tích hợp thông qua môi trường điện tử.
·Sự tích hợp thành công giúp ngân hàng phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm liền mạch trong suốt đối với khách hàng.
·Ngân hàng dịch chuyển sự tập trung: từ chú trọng sản phẩm thành chú trọng khách hàng.
·Kết nối khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ, các tổ chức tài chính kích thích/ thúc đẩy sự tin cậy của khách hàng, và đóng vai trò trung gian đảm bảo nhà cung cấp được thanh toán đầy đủ và khách hàng thoả mãn với dịch vụ.
·Kết quả cuối cùng: Phát triển, duy trì khách hàng với quy mô lớn, tiết kiệm chi phí và gia tăng lợi nhuận
4/ E-Banking tại Vietnam
·Hệ thống thanh toán điện tử bắt đầu có sự tham gia của hệ thống SWIFT (Tháng 3 năm 1995)
·Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (T5/2002) cho phép phát triển ngân hàng bán lẻ và bán buôn
·Các ngân hàng áp dụng dịch vụ cơ bản của ngân hàng điện tử (Truy vấn) :TECHCOMBANK, VCB, và một số ngân hàng khác
·Các kênh giao dịch phi truyền thông như ATM, POS cũng được các ngân hàng đầu tư và khách hàng sử dụng ngày càng phổ biến
·Một số ngân hàng NN tại việt Nam cung cấp dịch vụ NHĐT thực thụ: Citibanking (Citibank), Hexagon (HSBC), DB-Direct (Deutsch Bank), ANZ-link (ANZ bank). Tuy nhiên mới dừng lại ở việc cung cấp cho KH là doanh nghiệp
·Techcombank là ngân hàng TMCP đầu tiên được NHNN cấp phép cho cung cấp dịch vụ E-banking thực thụ theo các tiêu chuẩn quốc tế ra thị trường và đặc biệt là khách hàng bán lẻ.
5/ Cơ sở pháp lý E-Banking tại Việt Nam
·Việc cung cấp các dịch vụ giao dịch điện tử trong đó có Internet Banking được thực hiện trên cơ sở Luật Giao dịch Điện tử của Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 51/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005. Đây là cơ sở pháp lý mới nhất để thực hiện các giao dịch điện tử. Luật này đã được hướng dẫn cụ thể bằng nghị định của Chính phủ số 57/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2006 về Thương mại Điện tử.
·Một số văn bản luật khác như:
§Quyết định số 04/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong ngành Ngân hàng.
§Quyết định số 35/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy định về các nguyên tắcquản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử.
§Quyết định số 376/2003/QĐ-NHNNQuy định về bảo quản, lưu trữ chứng từ điện tử đã sử dụng để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
§Quyết định của 308-QĐ/NH2 ban hành Quy chế về lập, sử dụng, kiểm soát, xử lý, bảo quản và lưu trữ chứng từ điện tử của các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng.
6/ Phân biệt E-banking và banking bình thường
E-Banking là những hoạt động của ngân hàng triển khai trên nền internet.
E-Banking khác Banking thưởng ở chỗ E-Banking thì người dùng trực tiếp thực hiện giao dịch còn Banking thường thì nhân viên ngân hàng thực hiện
II/ ỨNG DỤNG CỦA E-BANKING
1/ Đối tượng: Đối tượng sử dụng ebanking là tất cả các cá nhân và doanh nghiệp quan hệ với ngân hàng.
2/ Chức năng ngân hàng điện tử:
Ngân hàng điện tử đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ thương mại điện tử cho các doanh nghiệp như :
- Chuyển tiền
- Mở L/C
- Chuyển tiền giữa các tài khoản
- Thanh toán hoá đơn
- Kiểm tra tài khoản và số dư tài khoản
- Kiểm tra dư nợ
- Tải các thông tin tài chính.
- Kiểm tra số dư tài khoản
- Chuyển khoảng giữa tài khoản nội bộ , quốc gia và quốc tế .
- Thanh toán LC cho các doanh nghiệp
III/ CÁC MÔ HÌNH NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1/ PC banking: là hình thức theo đó ngân hàng có thể cung cấp phần mềm được cài đặt tại các văn phòng của người sử dụng. Sau đó người sử dụng có thể truy cập tài khoản của mình thông qua modem và đường nối điện thoại với ngân hàng. Đồng thời họ có thể chuyển tiền từ tài khoản vãng lai sang tài khoản tiết kiệm của cùng một chủ tài khoản. Cách truy cập này không cần thiết phải thông qua Internet.
2/ Internet Banking: Internet banking đóng một vai trò tích cực hơn. Mỗi trang chủ của ngân hàng được coi là một cửa sổ giao dịch. Thông qua trang chủ của ngân hàng, người sử dụng có thể truy cập tài khoản của mình và các dịch vụ trực tuyến khác như mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư vào chứng khoán.... Mỗi lần nhấp chuột sẽ là một cơ hội để kinh doanh và đầu tư, theo đó ngân hàng thay mặt khách hàng thanh toán và trừ các chi phí dịch vụ thông qua tài khoản của họ tại ngân hàng.
IV/ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, ngân hàng điện tử tại Việt Nam cũng đã có được những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, do tính chất còn quá mới mẻ và do khách hàng cũng chưa thực sự quan tâm lắm tới những dịch vụ này, các ngân hàng thương mại tại Việt Nam vẫn đang thận trọng và dè dặt khi tung ra những sản phẩm dịch vụ mới. Cụ thể, đối với dịch vụ PC-banking, trên thị trường mới chỉ có vài ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ ngân hàng tại nhà “home-banking” (Vietcombank, Incombank, ACB, Eximbank ...) và 2 ngân hàng nước ngoài là ANZ và Citibank cung cấp. Dịch vụ Phone-banking, có các ngân hàng cung cấp là VCB, ACB, Techcombank, HSBC, ANZ và Citibank… Dịch vụ Mobile-banking thì có ngân hàng Incombank, ACB và Techcombank…, ngoài ra, các ngân hàng khác chỉ mới dừng lại ở việc thiết lập các trang web chủ yếu để giới thiệu ngân hàng và cung cấp thông tin dịch vụ. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và PTNTVN đang triển khai thử nghiệm dự án E-banking. Bên cạnh đó, để phục vụ cho hệ thống thanh toán cho TMĐT, VASC đã xây dựng cổng thanh toán VASC Payment để làm cơ sở cho hệ thống thanh toán qua mạng Internet và hệ thống quản lý chứng chỉ số - VASC CA (Certificate Authority), để cung cấp chữ ký điện tử và chứng nhận điện tử để làm cơ sở pháp lý cho giao dịch điện tử, tạo niềm tin cho khách hàng cũng như nhà cung cấp dịch vụ, là xương sống cho sự phát triển thương mại điện tử trong thời gian tới.
1/ Một số dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam:
Về nguyên tắc, thực chất của dịch vụ ngân hàng điện tử là việc thiết lập một kênh trao đổi thông tin tài chính giữa khách hàng và ngân hàng nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng một cách nhanh chóng, an toàn và thuận tiện. Sau rất nhiều tìm tòi, thử nghiệm và ứng dụng, hiện nay dịch vụ ngân hàng điện tử được các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp qua các kênh chính sau đây: ngân hàng tại nhà (home-banking, Internet-banking); ngân hàng tự động qua điện thoại (Phone-banking, mobile banking); ngân hàng qua mạng không dây (Wireless-banking)…
* Dịch vụ ngân hàng tại nhà (home-banking):
Home-banking là kênh phân phối dịch vụ của ngân hàng điện tử, cho phép khách hàng thực hiện hầu hết các giao dịch chuyển khoản với ngân hàng (nơi khách hàng mở tài khoản) tại nhà, tại văn phòng công ty mà không cần đến ngân hàng.
Ứng dụng và phát triển Home-banking là một bước tiến mau mắn của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước sức ép rất lớn của tiến trình hội nhập toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Đứng về phía khách hàng, Home-banking đã mang lại những lợi ích thiết thực: nhanh chóng- an toàn- thuận tiện. Và khẩu hiệu “Dịch vụ ngân hàng 24 giờ mỗi ngày, bảy ngày mỗi tuần” chính là ưu thế lớn nhất mà mô hình ngân hàng “hành chính” truyền thống không thể nào sánh được. Hiện nay, dịch vụ Home-banking tại Việt Nam đã được nhiều ngân hàng tại Việt Nam ứng dụng và triển khai rộng rãi như: Ngân hàng Á Châu www.acb.com.vn; Ngân hàng công thương Việt Nam www.icb.com.vn; Ngân hàng ngoại Thương VN www.vcb.com.vn;www.techcombank.com.vn, Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam www.eximbank.com.vn …
Dịch vụ ngân hàng tại nhà được xây dựng trên một trong hai nền tảng: hệ thống các phần mềm ứng dụng (Software Base) và nền tảng công nghệ web (Web Base), thông qua hệ thống máy chủ, mạng Internet và máy tính con của khách hàng, thông tin tài chính sẽ được thiết lập, mã hoá, trao đổi và xác nhận giữa ngân hàng và khách hàng. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, quy trình thanh toán qua Home-banking được thực hiện tương đối phức tạp hơn với quy trình bảo mật, xác nhận an toàn hơn. Mỗi doanh nghiệp sẽ được hệ thống Home-banking cung cấp hai loại User có mã số truy cập, mật khẩu khác nhau được phân quyền. Lệnh thanh toán của khách hàng chuyển đến Ngân hàng thông qua hệ thống Home-banking được ký 2 chữ ký điện tử theo đúng quy định chứng từ của Ngân hàng Nhà nước và hầu hết được thực hiện ngay trong ngày làm việc.
* Dịch vụ ngân hàng tự động qua điện thoại (Phone-banking)
Phone-banking là hệ thống tự động trả lời hoạt động 24/24, khách hàng nhấn vào các phím trên bàn phím điện thoại theo mã do ngân hàng quy định trước, để yêu cầu hệ thống trả lời thông tin cần thiết.
Cũng như PC-banking, dịch vụ ngân hàng được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và phần mềm quản lý đặt tại ngân hàng, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài của dịch vụ. Thông qua các phím chức năng được định nghĩa trước, khách hàng sẽ được phục vụ một cách tự động hoặc thông qua nhân viên tổng đài.
Qua Phone-banking, khách hàng có thể sử dụng rất nhiều dịch vụ ngân hàng như : hướng dẫn sử dụng dịch vụ, giới thiệu thông tin về dịch vụ ngân hàng, cung cấp thông tin tài khoản và bảng kê các giao dịch, báo nợ, báo có, cung cấp thông tin ngân hàng như lãi suất, tỷ giá hối đoái, chuyển tiền, thanh toán hoá đơn và dịch vụ hỗ trợ khách hàng,..thực hiện mọi lúc mọi nơi kể cả ngoài giờ hành chính. (ví dụ VCB HCM qua số 8225414..) Ví dụ: Dịch vụ Phone-banking của ngân hàng Vietcombank TP.HCM. Gọi 8225414, khách hàng sẽ được cung cấp nhanh các thông tin mới nhất liên quan đến tỷ giá các ngoại tệ, lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền vay của Ngân hàng ngoại thương chi nhánh TP. HCM (Vietcombank HCM). Với hướng dẫn chi tiết và các phím số chức năng khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ như: nghe số dư tài khoản; nghe tỷ giá ngoại tệ; nghe lãi suất tiền gửi (đồng Việt Nam, USD); nghe lãi suất tiền vay và thay đổi mật mã… Ngoài dịch vụ truy cập nhanh, còn những dịch vụ cộng thêm mà khách hàng sẽ được cung cấp khi liên hệ trực tiếp với ngân hàng.
Ngân hàng kỹ thương *Dịch vụ ngân hàng qua ĐTDĐ (Mobile-banking):
Cùng với sự phát triển của mạng thông tin di động, dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam cũng đã nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới này.
Mobile - banking là một kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua hệ thống mạng điện thoại di động. Về nguyên tắc, đây chính là quy trình thông tin được mã hoá, bảo mật và trao đổi giữa trung tâm xử lý của ngân hàng và thiết bị di động của khách hàng (ĐTDĐ, Pocket PC, Palm…).
Dịch vụ này đã được Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng kỹ thương triển khai trong vài năm gần đây, và các ngân hàng khác cũng đã và đang bắt đầu xây dựng hệ thống và cung ứng dịch vụ Mobile-banking do tính chất thuận tiện, nhanh chóng đặc trưng của nó.
* Internet banking:
Internet banking cũng là một trong những kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, mang ngân hàng đến nhà, văn phòng, trường học, đến bất kỳ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Với máy tính kết nối Internet, bạn sẽ được cung cấp và được hướng dẫn các sản phẩm, các dịch vụ của ngân hàng. Qua Internet banking các bạn có thể gởi đến ngân hàng những thắc mắc, góp ý với ngân hàng và được trả lời sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên, với tính chất bảo mật không cao bằng dịch vụ ngân hàng tại nhà hoặc Kiosk-banking, dịch vụ Internet-banking vẫn còn được cung cấp hạn chế và đòi hỏi quá trình xác nhận giao dịch phức tạp hơn.
* Kios ngân hàng:
Là sự phát triển của dịch vụ ngân hàng hướng tới việc phục vụ khách hàng với chất lượng cao nhất và thuận tiện nhất. Trên đường phố sẽ đặt các trạm làm việc với đường kết nối Internet tốc độ cao. Khi khách hàng cần thực hiện giao dịch hoặc yêu cầu dịch vụ, họ chỉ cần truy cập, cung cấp số chứng nhận cá nhân và mật khẩu để sử dụng dịch vụ của hệ thống ngân hàng phục vụ mình. Đây cũng là một hướng phát triển đáng lưu tâm cho các nhà lãnh đạo các ngân hàng thương mại Việt Nam.
V/ XU HƯỚNG E-BANKING TẠI CHÂU Á
Có tiềm năng cho việc tăng trưởng ứng dụng ngân hàng điện tử tại châu Á. Những người phỏng vấn của McKinsey đã đưa ra các chỉ số sau:
1. Những người sử dụng tiên phong: 38% những người được phỏng vấn cho rằng họ có ý định mở một tại khoản trên mạng trong tương lai gần. Những người sử dụng đi đầu này thực hiện nhiều hơn 1/3 số giao dịch so với những người sử dụng khác và họ có ý định áp dụng tất cả các kênh của ngân hàng thường xuyên hơn.
2. Những người theo sau: Khoảng 20% nữa chỉ ra rằng cuối cùng họ sẽ mở một tài khoản trên mạng nếu tổ chức chính đưa ra và nếu không có phí ngân hàng nào thêm vào 3. Những người từ chối: 42% (so với con số 58% của những người đi đầu và những người theo sau) cho rằng họ không hứng thú với hoặc không muốn dịch vụ ngân hàng Internet. Cần nhấn mạnh rằng những người được phỏng vấn này thích sự chắc chắn và đơn giản, chẳng hạn như sở hữu ít hơn các sản phẩm ngân hàng và giải quyết ít hơn với các tổ chức tài chính. Ít hơn 13% những người sử dụng đi đầu và những người theo sau chỉ ra một số quan tâm tới việc thực hiện các hoạt động phức tạp trên Internet như là mua bán cổ phiếu hay nộp đơn bảo hiểm, thẻ tín dụng và nợ. Khoảng 1/3 những người sử dụng dẫn đầu và những người theo sau chỉ thực hiện những chức năng ngân hàng cơ bản như là tìm kiếm số dư tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản qua Internet.
VI/ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN E-BANKING TẠI VIỆT NAM:
Mặt khác, E-Banking là dịch vụ NHĐT “hoàn hảo” nhất, khách hàng quan hệ, giao dịch và thanh toán với ngân hàng qua mạng - Là dịch vụ có tính tiện ích cao nhất, nhưng đòi hỏi tính an toàn, bảo mật trong thanh toán cao nhất, bởi lẽ rủi ro trong hoạt động dịch vụ này là không nhỏ. Tuy nhiên, so với các NHTM Việt Nam mới chỉ phát triển ở mức độ nhất định, khách hàng chủ yếu là các TCTD. Khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế còn ít và chỉ tham gia quan hệ mang tính chất tư vấn, tham khảo và tìm kiếm thông tin là chủ yếu. Nó chưa khai thác được điểm mạnh và lợi thế tuyệt đối của một NHĐT là cung cấp sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng và có tính tiện lợi, tiện ích cao, nhanh chóng, chính xác. NếuNHĐT là một người bạn “riêng tư” cho khách hàng, có độ tin cậy cao về thông tin tín dụng, làm được điều này các NHTM Việt Nam sẽ tiết kiệm đáng kể được các chi phí cố định mở phòng giao dịch và giảm được số lượng nhân viên. Xét trên quan điểm kinh tế thì NHĐT tiết kiệm chi phí. Theo đó, tất cả các chi phí liên quan đến các hoạt động giao dịch, thanh toán, chi phí kiểm đếm, các chi phí đi lại sẽ giảm thiểu. Xét về mặt kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua các dịch vụ của NHĐT, các lệnh về chi trả, nhờ thu của khách hàng được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện cho vốn chu chuyển nhanh, thuận lợi, thực hiện tốt quan hệ giao dịch, trao đổi tiền - hàng. Qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tiền tệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là lợi ích mà các giao dịch kiểu ngân hàng truyền thống khó có thể đạt được với tốc độ nhanh, chính xác so với một NHĐT. Với mô hình ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng thì khả năng phát triển, cung ứng các dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng, nhiều lĩnh vực kinh doanh là rất cao. Đặc biệt NHĐT có thể cung cấp dịch vụ chéo. Theo đó các ngân hàng có thể liên kết với các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính khác để đưa ra các sản phẩm tiện ích nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ liên quan: ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư, chứng khoán... Khả năng giữ và thu hút khách hàng của NHĐT cao. Chính nhờ những tiện ích có được từ công nghệ ứng dụng (phần mềm tối ưu, nhà cung cấp dịch vụ mạng ưu tú, dịch vụ Internet thông thoáng) sẽ thu hút và giữ khách hàng sử dụng, quan hệ giao dịch với ngân hàng, trở thành khách hàng truyền thống của ngân hàng.
Về mặt xã hội - kinh tế, NHĐTgóp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế thương mại, dịch vụ và du lịch phát triển, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với khu vực và thế giới. Đặc biệt góp phần thúc đẩy các hoạt động thương mại điện tử phát triển.Ưu điểm của NHĐT là có khả năng thu hút trên phạm vi rộng về khách hàng bất kỳ thời điểm nào (24/24h/ngày) với mọi khoảng cách về không gian, thời gian. Chính điều này giúp cho các ngân hàng tiếp cận được khách hàng tốt hơn, tiết kiệm được chi phí giao dịch...
Thực hiện các hoạt động dịch vụ NHĐT, cho phép các Ngân hàng thích ứng nhanh chóng với những thay đổi của thị trường, điều chỉnh kịp thời phí, lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến của tình hình thị trường. Hạn chế rủi ro do biến động về giá cả của thị trường gây ra, mang lại lợi ích kinh tế cho ngân hàng và khách hàng tham gia sử dụng dịch vụ của NHĐT. Đây là lợi ích vượt trội so với ngân hàng truyền thống.
Sự kết hợp hài hoà trong quá trình phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống và phát triển NHĐT, cho phép các TCTD tiếp cận nhanh với các phương pháp quản lý hiện đại giúp các TCTD đa dạng hoá sản phẩm, tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả hoạt động và đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế hội nhập.
Tuy nhiên quá trình phát triển NHĐT vẫn còn một số vấn đề các TCTD cần đặc biệt quan tâm để phát triển đúng hướng và đạt được hiệu quả cao. NHĐT là hoạt động ngân hàng kết hợp với CNTT, công nghệ mạng, mọi giao dịch của khách hàng - ngân hàng đều được thực hiện trực tuyến thông qua mạng, với các khái niệm mới như: Ví điện tử, tiền điện tử, chứng từ điện tử, thẻ thông minh… Lẽ đó, nó làm thay đổi hẳn các phương pháp quản lý, phương pháp giao dịch, quan hệ khách hàng khác với các hoạt động thông thường của ngân hàng truyền thống. Nó làm nảy sinh nhiều vấn đề liên quan: vốn và công nghệ; an toàn và bảo mật; quản trị, phòng ngừa rủi ro vv...
Xây dựng và phát triển NHĐT đòi hỏi nguồn vốn lớn để phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, trang bị máy móc thiết bị làm việc, xây dựng, phát triển phần mềm, đào tạo nguồn nhân lực... Qúa trình này phụ thuộc rất lớn vào năng lực tài chính của mỗi TCTD. Đây là một trong khó khăn vướng mắc hiện nay trong quá trình hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, quá trình phát triển các dịch vụ của NHĐT. Bên cạnh đó việc lựa chọn công nghệ, phần mềm ứng dụng cũng có tính quyết định đến hiệu quả hoạt động của NHĐT.
Khi ứng dụng NHĐT vấn đề an toàn và bảo mật thông tin, bảo mật nguồn dữ liệu là vấn đề cực kỳ quan trọng, mang ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Rủi ro lớn nhất trong hoạt động NHĐT là hệ thống bị xâm phạm, bị giả mạo, lừa đảo trong thanh toán, chi trả. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào các giải pháp công nghệ, giải pháp kỹ thuật, các chương trình phần mềm về mã khoá, chữ ký điện tử, cũng như hệ thống pháp lý về hoạt động của NHĐT.
Vấn đề quản trị và phòng ngừa rủi ro, phải gắn liền với quá trình phát triển các hoạt động của NHĐT, là quá trình đổi mới phương pháp quản lý, quản trị ngân hàng, hệ thống bộ máy tổ chức và cơ cấu hoạt động, hệ thống quản trị rủi ro, kiểm soát và các biện pháp phòng ngừa. Các TCTD cần phân tích, xem xét các mô hình NHĐT đã và đang phát triển của một số nước trên thế giới, để học tập tham khảo và xây dựng hệ thống quản trị NHĐT phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam, đảm bảo hoạt động lành mạnh phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả.
Trên đây là những vấn đề đặt ra liên quan đến quá trình phát triển NHĐT đối với các TCTD. Tuy nhiên, sự phát triển của NHĐT phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Môi trường kinh tế; môi trường pháp lý; trình độ phát triển kinh tế; trình độ phát triển của các doanh nghiệp và của khách hàng cá nhân, có ý nghĩa quyết định rất lớn đến sự phát triển của NHĐT. Xu thế phát triển NHĐT là tất yếu, và quan điểm đi tắt, đón đầu trong phát triển công nghệ cần được xem xét kỹ lưỡng xong cần thận trọng, đảm bảo sự phát triển phù hợp vơi từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất nước, đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững và hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, để phát triển NHĐT, trước hết các TCTD trên địa bàn cần thực hiện một số “bước đi” thích hợp. Tiếp tục hoàn thiện và phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống là cơ sở đảm bảo cho TCTD phát triển đạt trình độ nhất định, tạo tiền đề để phát triển các hoạt động dịch vụ NHĐT.
Sự phát triển NHĐT phải mang tính chiến lược của quốc gia. Trong điều kiện hiện nay, các TCTD phát triển các hoạt động dịch vụ của NHĐT ở mức độ phù hợp với tình hình thực tế, trình độ phát triển của nền kinh tế; nhu cầu của khách hàng như: xây dựng và phát triển trang web; mobile banking; homebanking. Các sản phẩm dịch vụ này sẽ phục vụ cho chính các khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút khách hàng mới sử dụng bằng chính tiện ích, thông tin đã có của chính ngân hàng.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam mới đang thực hiện khai thác hiệu quả trang Web, hoạt động tiếp thị, quảng cáo, tư vấn... tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và phát triển khách hàng tiềm năng, khách hàng mới. Web site phải có nội dung đa dạng, phong phú, thông tin được cập nhật thường xuyên. Hy vọng trong xu thế hiện đại hóa, dịch vụ NHĐT sớm được ứng dụng, chấp nhận và trở thành phương tiện thân thuộc với mỗi tổ chức, cá nhân tham gia dịch vụ ngân hàng vì tính tiện lợi, kinh tế, hiệu quả của nó.